#9 The Anxious Generation (Thế hệ lo âu)

Đi máy bay luôn là khoảng thời gian rất thú vị (dù có hơi mệt) đối với mình, vì được hoàn toàn tách ra khỏi công việc, không điện thoại, không máy tính, không internet. Dù các chuyến bay đều có màn hình giải trí, nhưng rất hay bị ngắt quãng bởi thông báo của phi hành đoàn và quảng cáo khiến mình cũng không còn thích thú. Vậy nên 3 chuyến bay gần đây mình đã dành toàn bộ thời gian đọc sách. Và đây là một trong những cuốn sách khiến mình không muốn gấp lại, đọc rất tập trung và ghi chú rất nhiều. 
Dù cuốn này không thuộc thể loại sách dạy con (thể loại sách mà từ khi có con mình đã bỏ không đọc nữa 😂), mình thực sự khuyên các bố mẹ nên đọc để hiểu hơn về xã hội thực tế và phi thực tế mà con cái, và chính chúng ta đang sống. Để từ đó có cái nhìn cởi mở hơn, rõ ràng hơn và hi vọng là phù hợp hơn để nuôi dạy, hướng dẫn và đồng hành cùng con cái mình. 
The anxious generation book cover
Cuốn sách này viết về genZ, nhưng viết cho tất cả mọi người. 

Rối loạn lo âu là gì? 

Tác giả định nghĩa lo âu (anxious) là dự đoán về mối đe dọa trong tương lai. Trong khi đó, sợ hãi (fear) là phản ứng cảm xúc đối vưới mối đe dọa thực tế hoặc được nhận thức là sắp xảy ra. Cả hai loại cảm xúc này đều là những phản ứng lành mạnh của cơ thể. Tuy nhiên, khi quá mức thì chúng có thể trở thành rối loạn. 

Tại sao GenZ lại là đối tượng dễ bị rối loạn lo âu?

GenZ được định nghĩa là thế hệ sinh ra trong khoảng năm 1995,những người được tiếp xúc với hầu hết những thay đổi lớn nhất về Công nghệ, từ smartphone, iphone, social media... ở thời điểm định hình nên cá tính của họ, đó là thời niên thiếu, đặc biệt là tuổi dậy thì. 

Điểm chính mà tác giả muốn truyền tải trong cuốn sách này là:
"Cha mẹ bao bọc quá mức con cái trong thế giới thực, nhưng lại thiếu sát sao với chúng trên thế giới ảo"

Đó là nguyên nhân lớn khiến cho những đứa trẻ sinh ra trong khoảng thời gian 1995 - 2000 trở thành thế hệ lo âu. 

Đầu tiên, cần hiểu định nghĩa của tác giả về thế giới thực (real world) và thế giới ảo (virtual world), mình tổng hợp lại trong hình dưới đây.

Thế giới thực và thế giới ảo
Theo tác giả, sự ra đời của smartphone và social media, đặc biệt là những tính năng như selfie với camera trước bắt đầu từ iPhone 4, cùng với nền tảng Instagram xuất hiện vào năm 2010 đã tác động rất lớn đến thế hệ trẻ, đưa chúng xa rời thế giới thực và bị mặc kẹt trong thế giới ảo. 

Có hai hệ thống trong não của chúng ta đã tiến hóa hàng triệu năm, đó là:

  1. Chế độ khám phá (discover mode): khi ở chế độ khám phá, chúng ta có nhiều cảm xúc tích cực và sự phấn khích.
  2. Chế độ phòng thủ (defend mode): khi ở chế độ phòng thủ, cơ thể chúng ta tràn ngập hormone căng thẳng, và cơ thể ta bị chiếm đóng bởi việc xác định mối đe dọa và thoát khỏi chúng. 
Thế giới thực, với sự tương tác trực tiếp giữa con người với nhau, giúp cho chúng ta khám phá mọi thứ theo đúng bản năng tự nhiên. Trong khi đó, ở thế giới ảo, với điện thoại thông minh và mạng xã hội, chúng ta, đặc biệt là trẻ em sẽ khó để xử lý được tính lan truyền, ẩn danh, bất ổn và khả năng bị làm nhục ông khai quy mô lớn khiến cho chúng ta dễ bật chế độ phòng thủ. Với khả năng phân tích và hiểu người dùng, mạng xã hội có thể gợi ý nội dung, giữ chân người dùng lâu hơn và gây nghiện hơn. 
Ngày càng có nhiều trẻ vị thành niên ở Mỹ gặp vấn đề về mental health. Tác giả đưa ra các phân tích dữ liệu từ Mỹ cho thấy, từ năm 2010 tới năm 2020, tỷ lệ rối loạn lo âu ở Mỹ tăng 134%, tỷ lệ trầm cảm tăng 106%. Điều đáng nói hơn, trong 10 năm đó, tỷ lệ trẻ em nữ tự làm tổn tương bản thân (bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ như cắt tay) tăng tới 188%. Từ đó, tác giả cho rằng có sự liên quan giữa sự phát triển của công nghệ và social media tới chứng rối loạn lo âu. Năm 2010, những người sinh ra trong khoảng 1995 - 2000 bước vào độ tuổi 10 - 14, tuổi dậy thì, một giai đoạn rất nhiều thay đổi tâm sinh lý, lại dễ dàng bị chìm sâu vào thế giới ảo. Đây có thể hiểu là tác động rất lớn tới "thế hệ lo âu".

Free-play childhood và phone-based childhood: tuổi thơ tự do và tuổi thơ bên điện thoại.

Đây là hai khái niệm thú vị mà tác giả đưa ra trong cuốn sách này. 
Mình tự dịch free-play childhood là tuổi thơ tự do. Đây là thế hệ mà tuổi thơ xa rời điện thoại, được chơi đùa với bạn bè, gần gũi thiên nhiên. Trong khi đó, tuổi thơ bên điện thoại lại gắn liền với internet, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Trẻ học được nhiều hơn và tự nhiên hơn khi sống trong tuổi thơ bên nhau. Đây là phần mình thích nhất trong cuốn sách này vì hai bé nhà mình đang ở trong độ tuổi cần nhiều thời gian chơi đùa. Mình đã rất bất ngờ vì trước đây luôn nghĩ rằng phải tìm cách chơi với con, tối ưu thời gian bên con và làm thế nào để mỗi ngày phải có được vài tiếng giá trị cùng con. Nhưng những nghiên cứu về free-play (chơi tự do) lại cho thấy điều ngược lại, đó là trẻ học được nhiều từ việc chơi tự do hơn là theo hướng dẫn từ người lớn. Định nghĩa về việc chơi tự do là: 

  • Được tự lựa chọn thứ mình thích chơi, được thực hiện ngoài trời với các độ tuổi khác nhau, ít sự giám sát từ người lớn.
  • Được tự đưa ra quy tắc, định hướng cho trò chơi của mình, không bị chỉ đạo bởi cha mẹ hoặc người lớn. Khi người lớn tham gia, trẻ đôi khi ít tự do hơn, ít vui chơi hơn và có thể là ít có lợi hơn.

Trẻ sẽ học được nhiều những ký năng xã hội trong những trò chơi tự do, ví dụ như học cách thay phiên, đám phán, giải quyết xung đột. Điều này khiến mình bất ngờ, vì trước giờ mình luôn cố gắng dành thời gian để hướng dẫn con và nghĩ răng chơi với con thì phải có hướng dẫn, đưa ra luật chơi, nghĩ thật nhiều hoạt động càng tốt. Nhưng hóa ra điều đó không cần thiết, mà đôi khi còn bất lợi khi khiến cho trẻ cảm thấy thiếu tự do và học được ít hơn. Khi nghĩ lại thì mình thấy rất đúng. Một ví dụ đơn giản là khi hai bé nhà mình tự lắp Lego, không cần theo hướng dẫn, hai đứa rất hăng say và tạo ra nhiều hình rất thú vị. Tất nhiên, việc lắp theo hướng dẫn sẽ giúp rèn luyện sự kiên trì, hiểu luật và những kỹ năng cần thiết khác. Nhưng việc được chơi tự do, sáng tạo theo cách riêng của mình cũng rất quan trọng. Do vậy, nên có sự cân bằng, thoải mái khi chơi với con, không cần quá áp lực phải nghĩ ra hoạt động và tối ưu thời gian bên con. 

Và một trong những yếu tố quan trọng trong free-play mà tác giả nhắc tới, đó là trẻ có cơ hội được ngã, bị đau ở mức độ chấp nhận được. Khi đó, trẻ sẽ học được cách bảo vệ bản thân và người khác. Nhưng ngày nay, bố mẹ quá bao bọc con cái, các khu vui chơi cũng chú trọng quá mức tới tính an toàn và có rất ít cơ hội cho trẻ được trải nghiệm một cách tự do nhất. 

Trong khi đó, có rất nhiều cha mẹ, ông bà sẵn sàng đưa điện thoại cho con để đổi lấy thời gian cho riêng mình. Có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh cả nhà ra quán cafe và mỗi người một chiếc điện thoại. Bố mẹ rất lo lắng mỗi khi con ngã, bị đau, nhưng lại rất vô tư để con tiếp xúc với internet thoải mái, xem những chương trình có thể không phù hợp với độ tuổi. Và cứ như vậy, thế giới thực dần bị thu hẹp lại, thế giới ảo mở ra và những đứa trẻ mắc kẹt trong đó. Chế độ khám phá dần tắt đi, mở ra chế độ phòng thủ. Và rồi thế hệ lo âu vẫn tiếp diễn, không còn riêng genZ nữa, mà tất cả những thế hệ tiếp theo của chúng ta có thể cũng khó lòng thoát ra được (nếu ta không hành động).

Là cha mẹ, chúng ta có thể làm gì?

 Theo tác giả, để hạn chế tác động tiêu cực từ điện thoại và mạng xã hội, chúng ta có thể làm ngay được những điều sau đây:

  1. Không cho trẻ dùng điện thoại trước khi vào cấp 3
  2. Không cho trẻ dùng mạng xã hội trước 16 tuổi 
  3. Xây dựng trường học không điện thoại
  4. Tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ chơi tự do và không giám sát

Tất nhiên, những điều này là vô cùng khó. Nó đòi hỏi sự kết hợp giữa Nhà trường, Gia đình, và quan trọng nhất theo mình là Chính sách. 

Điều số 1, 2 và 4 mình nghĩ rằng cha mẹ có thể làm được. Hiện tại với gia đình mình, hai đứa nhỏ (6 tuổi và 4 tuổi) đều không được dùng điện thoại, chỉ xem tivi 1 - 2 lần mỗi tuần cùng bố mẹ. Tuy nhiên, điều mình trăn trở nhất là: chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chỉ có một số rất ít người áp dụng? Con mình sẽ hòa nhập thế nào nếu như đi học cấp 1, cấp 2 bạn nào cũng dùng điện thoại, bạn nào cũng có tài khoản mạng xã hội? Chính vì vậy, mình vẫn nghĩ rằng Chính sách sẽ là yếu tố đóng vai trò quyết định, giúp chúng ta bảo vệ thế hệ tương lai của mình.

Tuy vậy, nếu không hành động thì mình nghĩ rằng quá muộn. Thay vì việc cấm đoán, mình nghĩ rằng sẽ tạo cơ hội để con được chơi tự do nhiều hơn, cùng con tiếp xúc với công nghệ và có những giải thích, hướng dẫn cho con trên môi trường ảo. Và mình mong rằng sẽ có nhiều cha mẹ đọc được những dòng này, và bắt đầu hành động, và có thể chia sẻ thêm cho nhiều người khác nữa, để chúng ta tạo ra môi trường lành mạnh, nơi các con hiểu về mặt tốt và mặt xấu của Công nghệ, của mạng xã hội và biết cách sử dụng phù hợp. 

Và còn một việc nữa mình nghĩ rằng bố mẹ nên bắt đầu làm, đó là hạn chế sử dụng điện thoại, máy tính khi ở bên con. Thật khó khi mình muốn con hạn chế dùng điện thoại, hoặc cấm con dùng điện thoại nhưng lúc nào mình cũng cầm điện thoại trên tay. Mình chọn dành thời gian chơi cùng con, nhưng không giám sát (quá mức ^ ^), xem tivi cùng con, cố gắng tạo ra môi trường phát triển tự nhiên nhất. Một đoạn trong cuốn sách mà mình rất thích đó là, thay vì cố gắng uốn nắn những cái cây, hãy tạo ra khu vườn, rồi những hạt giống sẽ tự mọc theo cách của nó. Việc của người làm vườn là vun xới, tạo ra dinh dưỡng, còn việc phát triển thế nào là của mỗi cái cây. Nghe hay, nhưng mà cũng khó nhỉ? Mình sẽ chọn cách cân bằng, có một chút uốn nắn, nhưng sẽ cố gắng để cho cây phát triển tự nhiên nhất theo cách riêng của chúng. 

Viết đến đây là quá dài rồi. Mình không nghĩ đã 3 tiếng trôi qua từ khi mình mở máy tính ra. Mình cũng không có ý định chép lại những ý chính của cuốn sách. Như mọi lần, mình khuyến khích các bạn hãy tìm đọc để có thêm góc nhìn. Đây là cuốn sách rất hay, với cá nhân mình. Các tác giả viết rất dễ hiểu, đơn giản. Có sự kết hợp giữa dữ liệu, nghiên cứu và những câu chuyện, ví dụ thực tế, sẽ khiến bạn không cảm thấy quá hàn lâm, cũng không cảm thấy quá cá nhân theo kiểu kể chuyện. Chỉ có một lưu ý là nhưng dữ liệu này chủ yếu đến từ Mỹ và các nước phương Tây. Nhưng với quan sát của mình, có rất nhiều điểm tương tự đang diễn ra ở Việt Nam. Mình không nghĩ rằng cần từ bỏ mạng xã hội và điện thoại. Mình vẫn thấy giá trị kết nối, truyền tải thông tin và những tiện lợi đi kèm. Nhưng cần tìm cách sử dụng lành mạnh và hiệu quả, đúng như chức năng ban đầu của nó.

Cuối cùng, mình sẽ kết lại bài viết dài dòng này bằng một tiêu đề rất hay trong cuốn sách. Đại loại là mạng xã hội cho chúng ta cơ hội để đánh giá, chỉ trính rất nhanh, vì mọi thứ thật dễ dàng trên mạng. Chỉ một comment, một nút like, nút phẫn nộ, một dòng chia sẻ... đủ để chúng ta góp gió thành bão, đủ để làm một ai đó nổi tiếng qua đêm, hoặc khiến cho một ai đó mất hết hình ảnh, trở nên đau khổ và túng quẫn. Và tất cả những thứ đó được thực hiện ngay trên chiếc điện thoại có kết nối internet ở một nơi nào đó trên Thế giới, bởi một người nào đó dễ dàng tạo ra tài khoản online rồi xóa đi khi không cần nữa. Chúng ta quá dễ dàng để tức giận, nhưng lại quá khó để cảm thông và tha thứ. Vậy nên: 

Be slow to anger, quick to forgive.

 (viết có gì không hay thông cảm cho mình nhé hehe, forgive forgive)

Comments